Những hướng dẫn mới của chương trình giáo dục về cholesterol quốc gia của hoa kỳ nhằm phòng và điều trị cholesterol cao ở người lớn
Tóm tắt
Chương trình giáo dục về Cholesterol quốc gia (The National Cholesterol Education Program NCEP) của Hoa kỳ đưa ra hướng dẫn mới về dự phòng và điều trị chứng cholesterol cao ở người lớn, đăng tải trên Journal of the American Medical Association, ngày 16/5/2001. NCEP được xây dựng vào năm 1985, có sự tham gia của 40 hiệp hội y khoa và các cơ quan chính phủ. Bản hướng dẫn này được xét duyệt lại bởi Viện nghiên cứu Huyết học, Phổi và Tim Quốc gia (The National Heart, Lung, and Blood Institute - NHLBI), là 1 trong những thành viên thuộc các Viện Sức khoẻ Quốc gia (the National Institutes of Health - NIH), đóng tại Bethesda.
Hiện nay tại Hoa kỳ có khoảng 65 triệu người đang thực hiện ăn kiêng, và số người đang dùng thuốc hạ Cholesterol là khoảng 36 triệu. Tuy vậy người ta vẫn thấy có nhiều người Mỹ có nguy cơ cao mà bị bỏ sót không phát hiện sớm, và nhiều người Mỹ không được điều trị đủ tích cực.
Người ta nh ấn mạnh là chỉ riêng việc điều trị làm giảm LDL cholesterol (cholesterol xấu), cũng đã đủ hạ mức nguy cơ ngắn hạn bị bệnh tim mạch xuống 40%, việc điều trị còn làm giảm mức nguy cơ dài hạn tới 10 năm. Bản hướng dẫn cũng nh ấn mạnh việc coi bệnh tiểu đường có nguy cơ cao tương tương tiền sử bệnh tim.
Những yếu tố nguy cơ riêng biệt đối với bệnh lý tim mạch bao gồm: tuổi, mức cholesterol toàn phần, HDL cholesterol (cholesterol tốt), huyết áp tâm thu, điều trị cao huyết áp, hút thuốc lá.
Những điểm mới của bản hướng dẫn này là:
Với người bị tiểu đường cần điều trị hạ cholesterol tích cực hơn. Người bị tiểu đường type 2, ngoài nguy cơ ngắn hạn bị cơn mạch vành cao, còn có nguy cơ bị chết do tim đặc biệt cao.
Coi xét nghiệm lipoprotein (cholesterol toàn phần và HDL cholesterol) là xét nghiệm đầu tiên cần làm. Tiếp đó là LDL, triglycerides, và các chất béo khác. Mỗi người lớn tuổi nên được kiểm tra lipoprotein cứ 5 năm 1 lần.
Mức hạ thấp HDL cholesterol được coi là trở thành nguy cơ chính cho bệnh tim là 40 mg/dL (trước đây là 35 mg/dL). Người ta thấy có mối liên kết chặt chẽ giữa mức hạ HDL cholesterol với mức tăng nguy cơ bệnh tim. Mức HDL từ 60 mg/dL trở lên được coi là có tác dụng ngăn ngừa bệnh tim.
Nhấn mạnh vai trò của dinh dưỡng, tập luyện thể lực và kiểm soát cân nặng trong điều trị chứng tăng cholesterol máu. Chế độ ăn giảm bớt chất béo bão hòa (sat urated fat) và cholesterol. Trong chế độ ăn hàng ngày, chất béo bão hòa phải ít hơn 7% tổng lượng calorie, cholesterol ít hơn 200 mg. Trong tổng lượng calorie hàng ngày, cho phép 35% từ chất béo, trong đó chủ yếu là chất b do không bão hòa (unsat urated fat) không làm tăng cholesterol. Khuyến khích dùng thức ăn chứa các stanol và sterol thực vật, thức ăn nhiề u xơ sợi hòa tan. Các thức ăn đó gồm: bơ thực vật, dầu giấm trộn sà lách, hạt ngũ cốc, đậu tương, đậu Hà lan, rau, nhiều loại trái cây và thực vật khác. Kiểm soát cân nặng và tập thể dục tích cực giúp làm giảm LDL và tăng HDL.
Xác nhận’hội chứng chuyển hóa’(metabolic syndrome) liên kết với chứng đề kháng insulin làm tăng rõ rệt nguy cơ bị bệnh mạch vành. Hội chứng này gồm: mỡ bụng quá nhiều (dây thắt lưng quá dài), cao huyết áp, tăng triglycerides và giảm HDL. Hội chứng này kết hợp với chứng đề kháng insulin là nguyên nhân căn bản gây tiểu đường type 2, và là nguyên nhân đáng kể gây bệnh tim.
Điều trị gồm kiểm soát cân nặng và tập luyện thể lực.
Nhấn mạnh điều trị tăng triglycerides, dù mới chỉ ở mức ranh giới, bằng cách kiểm soát cân nặng và tập luyện thể lực. Nếu vẫn tăng, thì cần dùng thuốc.
Có những bằng chứng chống lại việc dùng trị hormone thay thế (trước đây coi như là liệu pháp thay cho việc dùng thuốc hạ cholesterol: với những phụ nữ tuổi mãn kinh bị bệnh tim, việc dùng hormone thay thế (hormone replacement therapy - HRT) không làm giảm được nguy cơ bệnh mạch vành hoặc chết do tim. Trong khi đó, thuốc hạ cholesterol làm giảm cơn bệnh mạch vành ở cả phụ nữ có bệnh tim lẫn không có bệnh tim